
Những đứa trẻ thiệt thòi
Các con của chị Tường là hai trong số những đứa trẻ thiệt thòi mắc phải căn bệnh di truyền từ cha mẹ.
Cả hai vợ chồng chị Tường đều mang trong mình gene
lặn bệnh Thalassemia - bệnh thiếu máu di truyền mà không biết. Ban đầu,
nhìn đứa con đầu lòng chậm lớn, trí tuệ chậm phát triển chị nghĩ rằng
trời không cho nó được may mắn như người khác. Rồi đứa con thứ hai sinh
ra sớm có biểu hiện như đứa đầu, vì là con trai nên vợ chồng chị rất lo
lắng đến giống nòi của mình, lặn lội đưa con về Hà Nội chữa bệnh. Phải
rất lâu sau khi được nghe bác sĩ phân tích, vợ chồng chị mới hiểu rằng,
những đứa con của họ mang trong mình căn bệnh khó khăn này.
TS Dương Bá Trực - Chủ nhiệm Khoa Huyết học lâm sàng,
BV Nhi TƯ cho biết, Thalassemia là một bệnh về máu có tính di truyền.
Người mắc phải căn bệnh này cơ thể bị giảm trầm trọng khả năng sản xuất
ra hemoglobin (một thành phần quan trọng của hồng cầu), làm cho cơ thể
bị thiếu máu trầm trọng và ứ đọng sắt. Hiện tại, Khoa Huyết học lâm
sàng, Bệnh viện Nhi TƯ quản lý tới hơn 1.000 hồ sơ bệnh nhân
Thalassemia, số đến truyền máu mỗi tháng tới 120 - 150 trường hợp. Tại
khoa Sốt xuất huyết Bệnh viện Nhi Đồng 1 (TP HCM), mỗi năm cũng tiếp
nhận từ 800 - 1.000 lượt bệnh nhân Thalassemia nhập viện điều trị. Còn
tại các bệnh viện tỉnh Nghệ An, Thái Nguyên, Lào Cai, Bắc Giang, Hòa
Bình, Thái Nguyên... cũng có hàng trăm bệnh nhân đến để được điều trị
căn bệnh này. Tuy nhiên, số bệnh nhân đến khám và điều trị chỉ chiếm tỷ
lệ nhỏ trong số những người mắc bệnh. Còn nhiều người chưa biết mình mắc
bệnh hoặc biết nhưng không có điều kiện để theo đuổi việc truyền máu,
điều trị. Con số bệnh nhân ngoài cộng đồng có thể lên tới hàng chục
nghìn người.
Gánh nặng về tinh thần và bệnh tật
Các thể bệnh Thalassemia - Thể nhẹ: Đây là những người chỉ mang gene bệnh, không có triệu chứng lâm sàng bình thường hoặc chỉ thiếu máu nhẹ. - Thể trung gian: Người bệnh có chuỗi globin bị giảm, có triệu chứng lâm sàng thiếu máu nhẹ hay trung bình. Trẻ sinh ra vẫn bình thường, trẻ có dấu hiệu thiếu máu thường xuất hiện từ 3 - 6 tuổi. - Thể nặng: Bệnh nhân bị thiếu máu nặng và sớm từ 5 - 6 tháng tuổi. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm thì bệnh nhân sẽ bị thiếu máu trầm trọng, vàng da, gan, lách to. Bệnh nhân có vẻ mặt đặc biệt: Xương trán, xương chẩm dô ra, xương hàm trên nhô, mũi tẹt. Ngoài ra, trẻ dễ bị chậm phát triển thể chất, vận động và tâm thần. - Thể rất nặng: Bệnh nhân bị chết ngay sau sinh do thiếu máu nặng, suy tim thai. |
Theo TS Trực, đây là bệnh phải được truyền máu suốt
đời, trung bình một tháng/lần, ít nhất phải đảm bảo được lượng
hemoglobin từ 70g/l trở lên. Nhưng hầu hết các bệnh nhân đều không được
điều trị như vậy. Thậm chí, có những trẻ đến bệnh viện nồng độ
hemoglobin chỉ còn 20g/l. Sau truyền máu, bệnh nhân cần được thải sắt,
vì bản thân bệnh Thalassemia làm tăng hấp thụ sắt, cộng với quá trình
truyền máu nhiều làm cho hàm lượng sắt trong bệnh nhân rất lớn, nếu
không được thải sắt sẽ dẫn đến các biến chứng như xơ gan, suy tim, gãy
xương, đái tháo đường...
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay là phần lớn các
bệnh nhân không được truyền máu và thải sắt thường xuyên do gia đình
không có đủ chi phí để điều trị, cùng đó là lượng máu để truyền hiện
cũng khan hiếm. Theo BS Nguyễn Thị Hồng Nga - Trưởng phòng Kế hoạch tổng
hợp của BV Truyền máu - Huyết học TP HCM, bệnh Thalassemia chiếm tỉ lệ
cao nhất trong tổng số bệnh về máu tới khám và điều trị tại đây. Còn TS
Nguyễn Thị Minh Cầm - Trưởng khoa Truyền máu của BV Nhi TƯ cho biết,
lượng máu BV tiếp nhận từ Viện Huyết học Truyền máu TƯ chỉ đáp ứng được
20% nhu cầu của BV. Có tới 30% bệnh nhân Thalassemia phải sử dụng máu
của người nhà, nhưng với việc truyền máu định kỳ của bệnh nhân thì bản
thân người nhà cũng không thể đáp ứng được.
Bệnh không chỉ đem lại gánh nặng cho gia đình về chi
phí điều trị mà còn đem lại những gánh nặng về mặt tinh thần cho bản
thân người bệnh. PGS.TS Bùi Văn Viên - Bộ môn Nhi, ĐH Y Hà Nội cho biết,
theo đánh giá kết quả điều trị và chất lượng sống của bệnh nhân
Thalassemia tại BV Nhi TƯ, có tới 81,9% bệnh nhân cảm thấy buồn chán vì
bệnh tật của mình; 65% cảm thấy mình khác biệt với mọi người; 50,5% lo
lắng vì khuôn mặt bất thường; 72,7% bệnh nhân trên 17 tuổi lo lắng về
tương lai và không tự tin vào bản thân.